Thai trứng và những điều cần biết
Thụ tinh và hình thành thai nhi
Sau khi tinh trùng và trứng kết hợp, quá trình thụ tinh diễn ra. Trứng sẽ di chuyển vào lòng tử cung và bám vào niêm mạc tử cung, tạo thành thai nhi và các cụm nhau như bánh nhau và túi ối.
Tuy nhiên, trong trường hợp gai nhau phát triển quá nhanh và mạch máu không phát triển, gai nhau sẽ phình to và tổ chức thành các túi dính chặt nhau, tạo thành thai trứng (chửa trứng). Thai trứng có hai loại:
- Thai trứng hoàn toàn: không có tổ chức thai nhi, gai nhau phình to và mạch máu biến mất.
- Thai trứng bán phần: vẫn có sự hiện diện của thai nhi hoặc một phần của thai nhi.
Nguyên nhân hình thành thai trứng
Hiện nay, y học vẫn chưa lý giải được nguyên nhân dẫn đến thai trứng. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng sau đây đã được xác định:
- Yếu tố di truyền dẫn đến bất thường ở bộ nhiễm sắc thể trong quá trình thụ tinh.
- Mang thai muộn sau 40 tuổi hoặc mang thai sớm dưới 20 tuổi.
- Sinh đẻ nhiều lần, có tiền sử thai nghén không bình thường, bất thường ở dạ tử cung.
- Thiếu dinh dưỡng: chế độ ăn thiếu dinh dưỡng như thiếu đạm, axit folic, vitamin A… tăng nguy cơ thai trứng.
Triệu chứng của thai trứng
Triệu chứng thai trứng bao gồm:
- Chậm kinh.
- Rong huyết: máu âm đạo ra tự nhiên, loãng và có màu bầm đen.
- Nghén nặng: nôn nhiều và kéo dài, cơ thể mệt mỏi, phù nề.
- Đau và nặng bụng dưới.
- Tăng huyết áp, đạm niệu.
- Tử cung mềm và phát triển nhanh hơn thông thường.
- Khó sờ và nghe tim thai khi đến giữa thai kỳ.
- Thiếu máu (nếu là thai trứng toàn phần).
- Dấu hiệu tiền sản giật.
- Triệu chứng cường giáp: nhịp tim nhanh, mệt mỏi, đồ mồ hôi, run tay.
Vì triệu chứng của thai trứng đa dạng, nên dễ dẫn đến nhầm lẫn với các bệnh lý sản khoa khác.
Nguy hiểm của thai trứng
Thai trứng không được chẩn đoán và điều trị sớm có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe phụ nữ, bao gồm:
- Chảy máu âm đạo dẫn đến thiếu máu mạn tính.
- Sảy tự nhiên dẫn đến chảy máu nhiều gây sốc mất máu nguy hiểm.
- Xâm lấn tử cung gây nguy cơ băng huyết hoặc sót trứng.
- Xâm lấn qua các lớp tử cung gây xuất huyết dữ dội trong ổ bụng.
- Phát triển thành ung thư nguyên bào nuôi, khó có thai lại.
Chẩn đoán và điều trị
Đi khám thai định kỳ là cách an toàn nhất để phát hiện sớm thai trứng. Chẩn đoán thai trứng có thể dùng siêu âm và xét nghiệm.
- Siêu âm: Dùng siêu âm để thấy hình ảnh tổ ong hoặc lỗ chỗ giống tuyết rơi, không thấy phôi thai (thai trứng toàn phần).
- Xét nghiệm: Định lượng beta-hCG, estrogen và HPL (human placental lactogen).
Để điều trị thai trứng, có hai phương pháp: nạo hút và phẫu thuật cắt tử cung dự phòng.
Nạo hút thai trứng
- Bác sĩ sẽ sử dụng dụng cụ nong cổ tử cung và máy hút để hút trứng.
- Sau đó sử dụng kìm hình tim, thìa to và thìa cùn để nạo lại và tránh sót trứng.
- Bệnh nhân sau thủ thuật sẽ được uống kháng sinh để đề phòng nhiễm khuẩn.
Phẫu thuật cắt tử cung dự phòng
Phương pháp này chỉ được áp dụng đối với phụ nữ trên 35 tuổi, đã sinh con hoặc có bệnh lý tại tử cung.
Theo dõi sau điều trị
Sau khi nạo hút thai trứng, các mẫu mô sẽ được gửi đi xét nghiệm giải phẫu bệnh lý để xác định tính lành hay ác tính của thai trứng. Tình trạng tử cung thường trở lại bình thường sau 3-4 tuần. Nếu tử cung còn to và âm đạo vẫn có máu, có thể thai trứng đã biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi.
Ngoài ra, sau khi nạo hút, bác sĩ sẽ theo dõi nồng độ hormone beta-hCG từng tuần để đánh giá sự tiến triển của thai trứng.
Thời gian mang thai sau thai trứng
Thai trứng không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản sau này của phụ nữ, kể cả sau điều trị hóa trị. Tuy nhiên, cần trì hoãn việc mang thai trong ít nhất 2 năm để theo dõi và đánh giá nguy cơ biến chứng thành ung thư. Mang thai quá sớm có thể tăng nguy cơ tái phát thai trứng hoặc biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi, thai lưu, sảy thai.
Phụ nữ có thể tránh thai bằng cách sử dụng bao cao su, canh ngày rụng trứng hoặc xuất tinh ngoài âm đạo. Cần tránh sử dụng thuốc tránh thai hoặc dụng cụ tử cung để tạo điều kiện tốt nhất cho theo dõi sau nạo hút thai trứng.
Nếu có thai lại, cần đi khám thường xuyên để theo dõi thai kỳ và phát hiện sớm các bất thường.